Friday, December 30, 2016

Chia Tay 2016 Chào 2017 Với Giao Thừa 1969 - 1970

còn gì khi từ giã
cho mặt trời sớm mai
còn bắt tay từ giã
đêm cuối lạnh bàn tay
biết mai bông có nở
mai qua ngày tháng khác
ta vẫn chưa ra gì
mai qua ngày tháng khác
ta vẫn chưa được gì
như lời kinh xuống chậm
khói vẫn hoài vân vi
NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Tuesday, December 27, 2016

PHÚ YÊN

quê em lồng lộng bóng dừa
mát trời xanh biển có vừa nhớ thương
ngọt tình em chuối ba hương
rộn lòng anh nắng rực đường sớm mai 

từ anh bông lý bông lài
cùng em huệ trắng rụng đài tường vi

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN


Friday, December 23, 2016

VIỆTNAM ƠI, CHÚA ƠI !

giáng sinh tan nát phận người
nhiễu nhương hiện thế khóc cười trầm luân
(nđbn)


Tuesday, December 20, 2016

TÂN HÔN

cầm tay lại hẹn cùng người sương sớm
với âm thầm riêng chiếc bóng đêm hôm
dù đại hạn giữa oán thù đã chớm
thì xin em một chút lệ căm hờn

em đã thở như vòm cây ta động
thì còn gì để gửi lại làm tin
em đã chảy theo mưu đồ ảo mộng
thì làm sao ta vọng mắt trông nhìn

em hào hển xô mù đêm cổ tích
em tròn xoe xót một tối uy quyền
em cúi xuống trên ngai thờ xổ lệch
nở một vùng như lạc tưởng an nhiên

đêm em ngủ môi mướt hồng rượu ngọt
bởi ham mê ta uống cạn không ngờ
dưới mộng biếc tinh hồn em vàng vọt
dù theo em là lượng sóng vô bờ

bởi vì ta đã trăm phần hỗn loạn
tình em theo như tàu vượt qua hầm
giữa tiệc cưới là phần đời nhỏ mọn
quanh loài người đang ca hát vô tâm

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Saturday, December 17, 2016

Tuesday, December 13, 2016

Đào Huy Đán: Nói chuyện với Nguyễn Đức Bạt Ngàn





Bài phỏng vấn do Đào Huy Đán (nhà văn Hồ Trường An) thực hiện và đăng trên nguyệt san Làng Văn số 58 tháng 6, 1989. Totonto, Canada
(nđbn)
....    
                                       
ĐHĐ: Xin anh cho biết một chút tiểu sử ?
NĐBN: Sinh quán ở Thừa Thiên, bên bờ sông Ô Lâu. Trú quán sau cùng trong nước: Bạc Liêu. Địa chỉ hiện tại: Edmonton, Canada.
ĐHĐ: Xin anh kể sơ qua về những hoạt động văn nghệ của anh hồi còn ở trong nước ?
NĐBN: Ở mặt chìm, thầm lặng viết. Viết rồi gom thành tập. Cất giữ cho mình và cho anh em bằng hữu chuyền tay.
ĐHĐ: Xin kể thêm hoạt động văn nghệ của anh sau khi Cộng sản bạo chiếm miền Nam. Về thi phẩm Bình Minh Câm, thời gian thai nghén, sáng tạo ?
NĐBN: Trước biến cố 1975 đối với văn giới thì tôi hầu như là một kẻ vô danh. Mặc dù năm 1970 đã có in chung với hai người bạn một tập thơ nhưng tầm phổ biến không là bao. Vì thế sau 30.4.1975, đối với Việt cộng - ít nhất là về mặt hoạt động văn nghệ - thì mình chỉ thuộc vào thành phần rất nhỏ nhoi, cho nên vẫn tiếp tục thầm lặng viết. Quá trình hình thành Bình Minh Câm thì tôi đã nói rõ ở bài tựa, ở đây chỉ thêm sơ về mốc thời gian của những bài thơ: Bình Minh Câm có 40 bài thì chỉ có chừng 8 bài là viết trước 30.4.1975, phần còn lại là viết sau biến cố mất nước. Tôi có thói quen không thích đề ngày giờ chi tiết dưới mỗi bài, trừ những trường hợp quan yếu. Cũng như nhan đề đầu tiên của Bình Minh Câm là “Từ những đày đọa mộng”, sau 30.4.1975 tôi mới đổi thành Bình Minh Câm. Có điều này: cảm quan khi viết Bình Minh Câm có một phần là cảm quan nhìn, chứng kiến đất nước bốc cháy, tàn lụi dưới tay kẻ thù chứ chưa phải là cảm quan sống với kẻ thù.
ĐHĐ: Xin nói rõ về phần phụ lục Nhật Ký Biển. Theo tôi đây chính là phần then chốt và rực rỡ nhất trong sự nghiệp thi ca của anh.
NĐBN: Anh là một trong vài người hiếm hoi nhận thấy được điều này. Phần phụ lục Nhật Ký Biển kèm trong tập Bình Minh Câm chính là phần then chốt của đời thơ tôi. Then chốt thôi, còn “rực rỡ nhất” thì xin anh quên nó đi. Mình sống cùng cuộc đời chớ làm sao quay lưng đi được, cho nên mình cùng vui cùng khổ, cùng hòa nhập với biến cố thời mình đang sống. Sau khi viết xong Nhật Ký Biển tôi cảm thấy mình bớt áy náy và tạm bình tâm hơn. Nhật Ký Biển tôi ghi lại chuyến đi: đau thương những vẫn phơi phới tự do và niềm tin. Còn Về Đâu thì viết sau đó ba năm, như một ngọn roi để thức tỉnh mình, gửi gắm cho người, nhưng chẳng ai thấy, ai nghe!
ĐHĐ: Giới bằng hữu anh em văn nghệ thường bảo rằng Nguyễn Đức Bạt Ngàn là nhà ảo thuật ngôn ngữ, tên phù thủy âm thanh. Anh nghĩ sao về nhận xét đó ?
NĐBN: Tôi nghĩ là anh em gọi đùa. “Ảo thuật ngôn ngữ”, “phù thủy âm thanh” ư? Tự tính của ngôn ngữ Việt đã là như vậy rồi. Tôi cũng như anh em khác chỉ dùng nó như một phương tiện để ghi ký cảm xúc của mình đấy thôi.
ĐHĐ: Anh thao túng hý lộng với ngôn từ quá nhiều. Vậy yếu tố nào làm cho thơ anh truyền cảm ?
NĐBN: Tất cả chỉ là trò chơi. Khi tôi viết chữ để thành thơ cũng vậy: cũng chỉ là một trò chơi. Tôi đã nêu rõ điểm này ở bài tựa của tập Bình Minh Câm. Khi mình thao túng, hý lộng ngôn từ bằng tâm thành thì cũng hứng thú lắm chớ. Còn anh muốn biết yếu tố nào làm cho thơ tôi truyền cảm thì tôi xin chịu thua. Nhờ bạn đọc thân mến chỉ dùm cho, bởi vì mình làm sao để trở thành độc giả khách quan của chính mình được!
ĐHĐ: Xin anh cho biết cảm tưởng khi ban Việt ngữ đài BBC giới thiệu tập thơ Bình Minh Câm phát thanh về nước vào tháng 10.85 và được nhắc lại trong phần tổng kết điểm sách vào cuối năm 1985.
NĐBN: Lâu rồi, tôi không còn nhớ cảm tưởng lúc đó ra sao. Chỉ có điều này: chính mẹ tôi nghe được và bảo em tôi viết thư cho hay. Mẹ tôi, nhân đó cũng muốn “vợ chồng tôi sinh thêm vài đứa con nữa” (!), có thể bà không tin tưởng mấy nơi bản thân tôi. Bà biết chắc là tôi có đi mà không có về, cho nên muốn tôi có con thêm cũng phải (!). Anh để tôi lông bông một chút: thuở nhỏ tôi lêu lỏng lắm, hành hạ cha mẹ tôi lắm phen, đi học thì nhiều lần người nhà phải trói lại gánh tới trường. Ngồi trong lớp mà hồn để đâu đâu. Cho nên tôi thường trốn học, mang sách vở chuồi vào bụi tre, chạy ra đồng cỡi trâu, bắt chim, bắt dế… đôi khi lang thang qua những làng bên cạnh quên cả về. Thuở đó tuy bé dại, nhưng sao thấy cuộc đời mênh mông quá, hừng hực hơi thở và niềm tin. Bây giờ càng lớn càng già, tôi thấy mình cũng như đời sống càng hao mòn, nhỏ lại. Anh thấy đó, dù đi khắp cả địa cầu, tôi thấy mình cũng chưa thoát ra khỏi vị thế của tay giang hồ vặt.
ĐHĐ: Anh là dân Huế, xin cho độc giả Làng Văn biết về những cảnh đẹp của đất thần kinh, và phong cảnh nào đã gợi hứng cho thi ca của anh ?
NĐBN: Huế thì đẹp rồi, tôi chắc độc giả Làng Văn có người còn rành hơn tôi. Phần mình, tôi cũng yêu mến Huế lắm. Yêu mến Huế như yêu mến Sài Gòn, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt và sau này là Bạc Liêu. Nhan sắc Huế cũng như một tác phẩm tư tưởng. Huế mạnh mẽ kiêu hùng trong Cao Bá Quát “Trường giang như kiếm lập thiên thanh”, Huế sương khói tượng trưng ở tầm nhìn Hàn Mặc Tử “áo em trắng quá nhìn không ra”, Huế mơ hồ nhẹ dạ qua Nhã Ca “này anh em cũng tợ sương mù”, Huế quắt quay hao mòn của Trần Dzạ Lữ “lòng xuân mưa bụi hết thời thanh niên”.Huế uyển chuyển, xông pha, cay đắng trong thơ Mường Mán, Tần Hoài Dạ Vũ, Thái Tú Hạp, Trần Hoài Thư, Huỳnh Liễu Ngạn, Hoàng Xuân Sơn… Huế của tôi cũng vậy: con người, phong cảnh, núi sông, thời tiết… tổng hợp lại tạo cho Huế một sắc thái: vừa ẩn dụ vừa siêu thực. Tất cả tạo thành một phần sống lớn cho thơ tôi. Da diết lắm anh à !



ĐHĐ: Xin anh kể về sự giao du với các văn hữu gốc Huế như Hồ Minh Dũng, Lê Bá Lăng, Trần Dzạ Lữ, Mường Mán… và sau này ở hải ngoại như Võ Đình, Hoàng Xuân Sơn, Hồ Đình Nghiêm, Trần Hoài Thư…
NĐBN: Tôi vốn du thủ cho nên bằng hữu ở ngoài đời nhiều hơn. Những người mà anh hỏi chỉ có một người là bạn thân. Phần còn lại thì chỉ biết mặt hoặc chưa biết mặt. Ra hải ngoại cũng vậy. Giao tình chỉ mới ở mức độ xa. Nói rộng ra giao thiệp bằng hữu không chỉ ở vấn đề đồng gốc, đồng hương, mà còn nhiều thứ khác.
ĐHĐ: Anh có nghĩ rằng: “Giữa Triền Hạn Reo” là một thiên trường ca, nói lên cái ẩn mật của đời sống. Những hình ảnh rất gần với cuộc sống mà anh vẽ trong thơ khiến người đọc cảm thấy thăng hoa vào một thế giới khác. Một thế giới tùy theo sự cảm nhận của từng người mà hình thành. Ý anh nghĩ sao ?
NĐBN: Khi viết Giữa Triền Hạn Reo, tôi đem những hình ảnh từ cuộc sống vào thơ. Tôi nói đến cái hiển lộ nhiều hơn cái ẩn mật. Nếu người đọc cảm thấy thăng hoa - tức khi đọc Giữa Triền Hạn Reo họ bắt gặp một nhiên giới hay nhân giới khác - thì cái đó cũng tùy theo kinh nghiệm của người đọc, tôi không nghĩ gì hết. Chắc anh nhớ câu thơ cổ này: Thủy đáo nhân gian định bất hồi. Thơ đi xuống cuộc đời là của người, là đi mất, chớ đâu còn là của mình như vị thế ban đầu nữa đâu…
ĐHĐ: “Giữa Triền Hạn Reo” là tác phẩm lãng đãng hương khói chiên đàn. Nó gợi cho người đọc một chút thiền phong, thiền vị có phải ?
NĐBN: Trong Giữa Triền Hạn Reo, biên giới giữa tôi và đời, giữa tôi và người, giữa tôi và vũ trụ đôi khi không còn lằn ranh. Tất cả hợp thành một, thành chân dung con người hiển lộng giữa đất trời, một con người sẵn sàng đón nhận, cảm nhận khổ đau lẫn hạnh phúc bằng an nhiên, vô ngại, kiêu hùng và bất khuất. Còn thiền phong, thiền vị như anh bày tỏ - chà, khó quá - vì điều này thì cảm chớ không nói được. Xin anh tha cho.
ĐHĐ: Có phải anh dùng chữ nghĩa để “chém rụng” thứ chữ nghĩa ù lỳ không làm mới ngôn ngữ của các thi sĩ khác ?
NĐBN: Chỉ vui chơi thôi mà. Tôi thấy mình có làm mới gì đâu. Có chăng, trong nghĩ tương đối nhất, có thể là mình đi con đường ít người đi, hoặc không ai thèm đi. Còn dùng chữ nghĩa để “chém rụng” chữ nghĩa như anh nói thì không có đâu. Chữ nghĩa mà tôi dùng vẫn là chữ nghĩa của ông cha mình đã dùng bao đời nay, cũ kỹ lắm.
ĐHĐ: Anh còn bao nhiêu bản thảo viết trong nước dự định sẽ in ?
NĐBN: Danh mục bản thảo của tôi đã ghi đầy đủ ở phần đầu tập Bình Minh Câm hay ở phần sau tập Giữa Triền Hạn Reo. Trừ tập thơ đầu đã mất tích cũng như một số còn gửi lại anh em bằng hữu, phần lớn còn lại tôi mang đi được hết. Riêng bản thảo Thuở Hẹn Người cùng viết một năm với Giữa Triền Hạn Reo (1972) cũng đã được đăng trọn vẹn trên Văn hải ngoại số 23 (1984). Sẽ in tiếp khi thuận tiện.
ĐHĐ: Xin anh nói qua về thi tập “Giã Từ Ân Phúc” ?
NĐBN: Dạo đó là năm 1970. Người đề xướng là Trần Huyền Thoại. Miên Hành và tôi đồng ý. Thế là bắt tay làm. Nhan đề tập thơ lấy từ tên một bài thơ của tôi. Tập thơ ngót 30 bài, tức là một người góp chừng 10 bài. Tài chánh và công sức thì do Miên Hành chịu một phần lớn. Số in hạn chế, chừng 500 tập, chủ yếu là tặng anh em bạn bè chơi, cho nên khoảng một năm là tuyệt bản. người viết tựa cho Giã Từ Ân Phúc là nhạc sĩ du ca Trần Đình Quân. Vị này rất thân với Trần Huyền Thoại, hiện sống ở Nam Cali, năm kia tôi sang bên đó chơi có gặp lại, anh em hàn huyên vui lắm. Sau 75 thì tôi mất liên lạc với Miên Hành. Còn Trần Huyền Thoại thì đã vượt biên thành công, hiện tạm trú tại Phi, chờ ngày vô Mỹ.



ĐHĐ: Anh có thích đọc không? Xin anh cho biết những tác giả, tác phẩm của Việt Nam cũng như ngoại quốc mà anh thích.
NĐBN: Tôi đọc bất kỳ tác giả nào mà tôi bắt gặp được: kinh điển, tư tưởng, văn thơ, khảo cứu, phê bình… Tôi đọc bằng chân tình và lòng kính trọng. Dù họ là tác giả cổ điển hay hiện đại, đông hoặc tây, già hay trẻ, mới hoặc cũ, trong nước hay ngoài nước. Yêu thích vẫn là kho tàng văn học dân gian hay văn chương truyền khẩu của mình: ca dao, hò vè, tục ngữ, truyện cổ, truyện tiếu lâm… Hồi còn nhỏ tôi hay mua những truyện cổ bằng thơ. Những thứ này ghi dấu trong tôi đậm lắm. Cũng khoái một phần khi đọc sách của Lão,Trang. Hai vị này lý giải những vấn đề cốt yếu của cuộc đời sao mà nhẹ tênh, tàng tàng, đề huề vui vẻ quá… Một kỷ niệm khoảng năm 1968, nhân đọc cuốn Kinh Thánh Cựu ước của hội thánh Tin Lành Việt Nam, tôi đã kinh ngạc vô cùng và choáng ngợp khi đọc chương Nhã Ca (The Songs of Salomon). Anh đọc chưa? Đọc rồi, tôi mới thấy đâu là suối nguồn vi diệu của thơ tình, cũng như đâu là sự vĩ đại và cứu chuộc của thơ tình. Cái âm hưởng này còn bám siết, theo mãi trong tôi dù đã ngoài hai mươi năm. Tôi nghĩ những anh em thích thơ, sống chết với thơ nên đọc. Thì ra, chẳng có gì mới mẻ cả trên cõi đời này, chỉ tại mình không chịu mở mắt ra thôi.
ĐHĐ: Anh nghĩ gì về các ngôn ngữ thi ca qua các thời đại ?
NĐBN: Cuộc sống thì ngày càng phong phú, còn ngôn ngữ thì hình như ngược lại. Ở đây tôi chỉ thấy dù ở thời nào thì yếu tính của ngôn ngữ thơ là phải bám vào cuộc sống. Khi cuộc sống thay đổi, dĩ nhiên ngôn ngữ thay đổi, cho nên ngôn ngữ thơ cũng như thế mà bước theo. Xin thêm: thay đổi không đồng nghĩa với làm mới, mà chỉ có nghĩa là làm khác đi.
ĐHĐ: Anh nghĩ sao về nền thi ca hải ngoại nói riêng và văn chương hải ngoại nói chung ?
NĐBN: Không nghĩ gì hết. Bởi vì cái gì thì cũng có định mệnh của nó. Thi ca hay văn chương hải ngoại - như anh thấy - cũng đã có sẵn con đường đi. Riêng bản thân mình nếu có làm được gì thì cứ làm và vui mừng khi thấy công việc làm của anh em.
ĐHĐ: Theo anh, thi ca có sứ mệnh gì không ?
NĐBN: Cũng không, thơ là thơ. Bắt thơ phải có sứ mệnh này sứ mệnh nọ chỉ càng chứng tỏ sự bất lực, bất nhân của con người. Hãy đến với thơ bằng tấm lòng, bằng cảm xúc thì hay hơn. Đừng đến với thơ bằng đòi hỏi cứu cánh, để đặt trách nhiệm. Mệt lắm. Tội cho thơ lắm.
ĐHĐ: Khi sáng tác, anh cần thứ gì để trợ hứng: như cà phê, thuốc lá, trà, rượu, hình ảnh gái đẹp hay một tư tưởng ngoại tình ?
NĐBN: Đủ món hết đó anh. Trợ hứng đôi khi cũng chính là nguồn hứng, tùy theo nhịp độ liên tưởng và kinh nghiệm: ví dụ như mảnh tàn thuốc rớt xuống cũng có thể cho mình thấy sự rơi rụng của đời… Nhìn sinh hoạt của bầy kiến cũng có thể cho đó là hóa thân của trần gian muôn màu muôn sắc… nhiều lắm, chỉ có điều là tùy lúc, tùy thời mà thành thơ… Nhiều lúc tôi nghĩ mình thi hóa được cuộc đời, có lẽ tại mình nhạy cảm và tếu quá chăng ?

ĐHĐ: Chị nhà có nổi máu Hoạn Thư với mấy hình ảnh cô em trong thi ca của anh không ?
NĐBN: Tôi phải xin phép bả mới trả lời anh được.
ĐHĐ: Chị nhà có sống theo từng nhịp thở thi ca của anh không? Chị có giúp gì để cho anh có sức sáng tác sung mãn như vậy ? Xin anh chị đừng rủa tôi mà tội nghiệp, vì độc giả Làng Văn cũng có người tò mò như tôi.
NĐBN: Bả sống theo từng nhịp thở của tôi và ba đứa con cũng đủ cho bả ngất ngư rồi, còn “nhịp thở thi ca” chắc là bả sẵn sàng tặng thiên hạ. Xin gửi cho anh và cũng cho độc giả - dĩ nhiên là những vị tò mò thôi - một câu này: còn gì tuyệt diệu hơn cho một thi sĩ khi hắn có một mái ấm gia đình, con cái vui ngoan và một người vợ khoan hòa, thực tế.
ĐHĐ: Xin anh một lời chót với độc giả Làng Văn.
NĐBN: Nói gì đây ? Cám ơn thường tình chăng ? Tôi thấy là bạn đọc thân mến đang bụm miệng cười rồi đó. Thôi thì … không lời như bóng mây qua.
ĐÀO HUY ĐÁN (HỒ TRƯỜNG AN) 
(Nguyệt san Làng Văn số 58, Toronto Canada 1989)

Saturday, December 10, 2016

BÓNG THƠ 2

chiều cao lãnh sáng mỹ tho
vĩnh long sa đéc hẹn hò cần thơ
hà tiên châu đốc tình cờ
tưởng sóc trăng gọi ai ngờ bạc liêu
bến tre đồng tháp phì nhiêu
trà vinh rạch giá vọng triều xa khơi
cà mau đất mũi chống trời
long xuyên chương thiện tháp lời mến thương

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Friday, December 9, 2016

MUÔN NĂM

mấy bữa rày vắng nhà
với Tiên
đi thăm bạn
cách xa cả nghìn cây số
lái xe qua thị tứ qua đồng bằng qua đèo qua hầm qua núi qua sông qua hồ qua ao

đường trường vẩn vơ

thỉnh thoảng hướng về xứ sở
hệ quả Tây Nguyên Vũng Áng Thành Đô
hạn hán Nam Bộ
Bản Giốc Nam Quan Hoàng Sa Trường Sa
Hà Nội Huế Sài Gòn chỉ một trận mưa rào là úng ngập
môi trường sống bị đầu độc
Hồng Hà Cửu Long khô máu 
Biển Đông vỡ bụng
Trường Sơn gãy đầu
nhân dân lầm than

đất nước tan nát do Việt Cọng đã đặt quyền lợi giai cấp trên hết

buồn xót quá chừng

tôi nghĩ về dân tộc tôi
chỉ hào hùng khi ôm ảo tưởng
ham mông lung hơn là sông nước cụ thể hiền lành 

4000 năm hay 40 năm
chúng ta không những đứng dừng mà còn chạy ngược vòng quay tiến hóa
40 năm hay 4000 năm
chúng ta dựng cờ tang mà tưởng đó là khải hoàn môn tráng lệ

nguyên cớ gì mà cả dân tộc luôn bị quyến dụ bởi phỉnh phờ dối trá
nguyên cớ gì mà đám du côn sau khi thành công đã quay lưng truy bức dân tôc mình
nguyên cớ gì mà cả dân tộc chưa vượt qua được sợ hãi để vùng lên

đường trường lơ mơ 

tủi cho dân tộc tôi
suốt chiều dài lập quốc
ngoài thời kỳ nô lệ ngoại bang
phần còn lại chỉ là tranh dành vương quyền của những dòng họ
(khoảnh khắc 20 năm tương đối tự do nhân bản của VNCH như chớp lóe phù du)
và đến bây giờ vẫn đang u mê dưới nanh vuốt của một bọn lưu manh thà mất nước còn hơn mất đảng

thơ bỗng trào lên câu hò bồi hồi hoang vắng
hồn gió hồn đất hồn ma
cuốn theo nhân thế ngụy hình phản trắc

à ơi
tao đi bỏ lại sương mù
mày về chuốc oán gây thù muôn năm

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN


Wednesday, December 7, 2016

BÓNG THƠ

thương tiền giang nhớ hậu giang
ruộng vườn bông trái sông tràn bóng thơ
rưng rưng hồn nước hai bờ 
đê mê vùng bốn dại khờ miền tây
NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Saturday, December 3, 2016

RƯỢU XUỐNG ĐỜI THƠM NGÁT

thường ngày
sau khi xong việc nhà
tôi thảnh thơi
online gặp bạn bè
vui với mình đọc dăm trang sách
nghe vài khúc hát
có hứng thú
thì mở chai rượu với cái ly
độc ẩm
rượu vào
thần trí lâng lâng
đưa mắt nhìn quanh
tôi cảm nhận được hạnh phúc
hạnh phúc
chính là
niềm trống rổng
tôi an nhiên trong hơi thở của mình
hầu như mọi thứ đã phôi pha
tôi bỗng hiểu ra mình là một sinh thể
đã trôi qua địa cầu này
đã đậu xuống
như một bổn phận
rồi sau khi phải làm xong những trách vụ mà tạo hóa đặt để
(và giả như nếu ta vượt qua thử thách sống chết)
thì mình sẽ được tự do
được phóng thích trở lại
với hồn nhiên ban đầu
như khi mình đã chưa từng có mặt nơi đây
nhấm nháp
trong men rượu
tôi gặp được quá vãng
ơi bằng hữu ta
ơi tri kỷ ta
ơi hồng nhan ta
một thời
rượu tình tự
rượu bất nhân thống khổ
rượu hùng tráng hoang đàng
rượu tù tội giới nghiêm
rượu sa trường trận mạc
rượu lao động học tập cải tạo
rượu vượt biên
rượu lên đường
rượu ở lại
rượu chia biệt không có hẹn về
chúng ta đã miệt mài trong rượu
tưng bừng rộn rã,
nhưng tâm tư mỗi đứa
vẫn là một cõi riêng
vô cùng
quạnh hiu
sau cùng với tôi
chẳng có điều gì quan trọng ở trên cuộc đời này
tôi đã hiện diện như một lữ khách
với nhân giới
tôi chỉ là tên đồng hành
đồng hành nắng mưa
đồng hành sinh tử
cùng bước
chẳng có mục tiêu
và em
tình yêu anh
nơi tận cùng không trời không đất
chúng ta sẽ mãi mãi với nhau
NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Tuesday, November 29, 2016

41 NĂM BÌNH MINH CÂM (6)

Vượt Thoát

mẹ hãy quên con như lần nước mất
dù trên đầu đã bạc xóa tóc cha
phương xứ lạ vẫn mầu mây cố quận
thì con làm sao níu được sơn hà

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Friday, November 25, 2016

từ một di niệm

này mùa xuân trả em thật âm thầm
này tháng giêng em hôn tầng cỏ non
có ai chờ bóng tối giữa ban ngày
trở mặt nhau thì rồi em cũng tội

tôi ôm tình giữa hai chân
nghiền nát hai tay ca hát
nước mắt hôm xưa ngu ngơ
đuổi bắt hải hồ em căng buồm đón gió

sóng có vùng đan nhánh giữa em
theo nụ cười thủy tinh vỡ
chờ nhau khi ngã nước
cho em bình minh này
một thoáng xa xôi triền miên giông bão

khi gieo tình này giữa đời góa bụa
lộc non nẩy mầm trên hạt mồ côi
em nhảy nhót
thỏa thích

từ ấu thơ tôi chắp cánh phượng hoàng
từ ấu thơ tôi bắt đầu mênh mông

tôi đặt tình giữa tay
tôi để tình dưới đất chờ trăng
đêm bối rối
em có nghe thinh không trở về
tôi từ biển mà lên
căng tròn hạt như  ý
ngày thứ nhất thứ hai rồi cuối cùng
điều chắc chắn là tôi sẽ cười
sẽ cười không nước mắt
cười thật tình, cười thật vỡ
giữa em và tôi trên tình hội chợ
mới đêm nào mà thoắt đã xa xăm

từ hoàng hôn tôi ra đi
từ thủy triều tôi sa chân, lạc giọng
mẹ có đứng trên bờ đê mà chờ
con trẻ thơ hiền hòa theo cha đón gió
mẹ còn khóc dưới hầm trong đêm tăm tối
bên ngoài đạn nổ
tiếng nguyện cầu tức tưởi
bóp nát tuổi thơ con

kim long, kim long
anh ra đời trước em mấy năm
mà tưởng như xa cách trùng trùng
em hãy ươm niềm tin cho mẹ
thỏa nguyện hoài bão cha
đã một đời chới với
mốt mai em khôn lớn
thì hãy quên ngày tháng vong thân anh
hãy ấp ủ cội nguồn mình
như con chim mới biết bay dưới đôi cánh mẹ
hãy yên bình
nghe em

giữa mù huy tôi cất tiếng
có ai về hôm nay
theo dòng sông em mất xác
đón tôi qua cầu
thản nhiên mà đi
đừng ngần ngại
dù biết rằng ngậm ngùi đuổi bắt
sau lưng

từ ấu thơ tôi chắp cánh phượng hoàng
trước bão dữ không hề biết mỏi

mai trở về rực rỡ hào quang
sáng giữa đời lạ mặt
và bằng hết nồng nàn
xin chào tất cả bằng hai chân

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN
Từ Giã Ngày, 1971

Tuesday, November 22, 2016

Trời Viễn Xứ Cũng Tròn Hương Mật













SAU LƯNG
em nhớ nối sợi chỉ hồng giữa hai đầu kiêu bạt
dù muôn trùng quê hương là mây trắng trời cao
anh còn lại một thời phiêu dạt
nghiêng trong đêm gương soi thầm vọng mắt chào
hạnh phúc em bay theo mùa xuân trước
gọi bóng anh về từng độ thu phân
đầu sóng gió ngọn nguồn anh vẫn bước
có tình thiêng em trắng mộng bao lần
em đồng vọng theo lòng tiếng suối
anh từ ly qua những con sông
này gió bụi ân cần mừng tuổi
nặng linh hồn mỗi bước lưu vong
giờ vĩnh biệt máu trào lên tiếng nấc
là đường đi anh nổi lửa hôm sau
trời viễn xứ cũng tròn hương mật
giữa mắt em xưa nghe bào ảnh lên màu
NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Saturday, November 19, 2016

BUỔI SÁNG VỚI HOÀNG LIÊN

buổi sáng với hoàng liên nhìn mây bay ngoài khung cửa lớp
buổi sáng nhìn hoàng liên hồn chợt bâng khuâng
buổi sáng với hoàng liên có mây dừng trên tóc em hiền
cho hoàng buổi sáng với những gì trong tôi còn lại

ôi mắt em là vùng thơ rất lạ
vùng thơ say cuồng quen thuộc xa xăm
làm chim trời tôi chưa từng mỏi cánh
theo gió ngàn
sao bây giờ bỗng thương nhớ băn khoăn

buổi sáng với hoàng làm chim hôn lên làn tóc
buổi sáng làm chim hôn lên mắt em buồn
buổi sáng
làm mây
theo em trôi về viễn xứ
biết bao giờ tôi mới hết cô đơn

buổi sáng theo hoàng hai bàn tay vụng dại
hai bàn tay đưa trang vở ngập ngừng
buổi sáng cho hoàng những gì trong tôi còn lại
buổi sáng này xin nhớ mãi nghe em

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN
1969

Tuesday, November 15, 2016

CHUYẾN ĐI KHÔNG THỂ KHÔNG ĐI

anh tìm về nơi chốn anh sinh ra
ngồi trên nền nhà cũ
đứng bên dòng Ô Lâu
dãi dầu với Huế

chuyến đi không thể không đi

anh đã hòa tan với nóng
với khói
với bụi
với mưa
với người
với việtnam
nhiệt đới

sau ngót 30 năm anh trở về
nhìn đất
nhìn trời
nhìn nơi anh đã sống
đã bám
đã bỏ
đã yêu
đã thù
đã chết
đã thăng hoa
đã cùng tận
anh bắt gặp chính mình

chúng ta sinh ra
vì không thể
không sinh ra
làm người
trên mặt đất
bên này bên kia

giới tuyến không từ không gian
giới tuyến không từ thời gian

mà chính chúng ta đã là
lằn ranh
chối bỏ nhau
nô lệ nhau
đọa đày nhau
cùng khổ nhau
tươm máu

chuyến đi không thể không đi

như vòng tròn thoát thai
như bình minh hoàng hôn
như áp bức cường quyền
như anh nắm tay em
hành trình
vô định

chuyến đi không thể không đi
như việtnam
như nhân loại

anh đã bắt tay anh
chào biệt thiếu thời
ai ngờ tuổi già anh
thấy mình nhỏ dại
với nắng
với đất
với sông
với núi
với bão lũ

như khi anh ngồi bên mộ ba mạ anh
trường sơn
biển đông
chụm đầu
dấy lên oan khốc

chuyến đi không thể không đi
bởi vì
anh chưa bao giờ ra đi
nên anh chẳng bao giờ trở về
anh chỉ là anh
vô tăm
vô tích

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN
(trích email cho tình thơ xa
tháng 11, 2006)

Friday, November 11, 2016

CHIÊU NIỆM

em chiêu niệm từ riêng giòng vạn đại
thuở trùng phùng đan thắm cả tinh nguyên
còn có gặp trong một lần diệu vợi
bước em đi như chùng vọng ưu phiền

từ cõi hẹn đã lập lòe xa ngái
tình phôi thai bát ngát ý dung từ
uống thật cạn giữa tâm sầu ngần ngại
mỗi hồ trường là máu rủ chân như

còn say khướt theo một thời tịnh tưởng
cỏ đồng bằng là trái phá bình nguyên
em có thắp lên hàng cây ngả bạc
bao nhiêu năm những thể phách giao nguyền

đành phá tổ để còn về kết hợp
còn sơ phân như tăm tối van cầu
khi nằm xuống với người, em có ngợp
và còn gì trong phổi nát tim đau

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Tuesday, November 8, 2016

PHẤN TRẮNG

sáng lớp học anh nhìn viên phấn trắng trên hành lang anh muốn kẻ tên em màu phấn trắng ngây thơ như màu nắng trong âm thầm anh khẽ gọi tên em NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Friday, November 4, 2016

TÀ HUY

mẹ ngồi thân đẫm hoàng hôn 
hai vai quằn quại linh hồn con đau 

từ cha tóc bạc mái đầu 
lưng còng hệ lụy dãi dầu nắng mưa 

à ơi một kiếp mong chờ 
lụn đời sao vẫn nghe mờ bóng con

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Thursday, November 3, 2016

BÀI KỆ RIÊNG

phân chia giai cấp là thói thường của nhân sinh
từ đó đã dấy lên bao nhiêu phiền lụy
không những thế, trong từng giai cấp còn chứa nhiều đẳng cấp

tâm và tầm là 2 mệnh đề chính
chi phối quyết định cách sống
là thái độ của từng cá thể trước xã hội
ta vui hoặc buồn sẽ bắt nguồn từ đây

đến với đời sống và
tôn trọng đời sống
đối đãi tha nhân bằng chân tình bình đẳng bạn hữu
không ai hơn ai
không ai thua ai
mỗi một con người đều được tạo hóa ban cho bản chất riêng

hòa ái theo nhịp thở
đời sẽ càng tươi đẹp

tặng các bạn một bài kệ riêng
do tôi viết cho tôi
hàm dưỡng
chẳng nhớ là đã bao nhiêu năm

tâm động tầm thấp
nên ta hấp tấp
tâm tĩnh tầm cao
nên ta lao đao
mở tâm phóng tầm
thong dong biết bao

 NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Monday, October 31, 2016

HUẾ

sống lang bạt nhưng lòng anh vẫn Huế dù hiên nhà tàn lạnh hạt sương con sao úa rụng quanh em cười với Huế như mây vờn bên yểu điệu chân son con mắt ướt cụm bèo trưa trôi dạt thuyền lên khơi ai ngóng đợi thuyền về quá hoang phế mưa thành xưa nặng hạt nghẹn tiếng hò trong đêm vắng ai nghe em cam phận giữa ngục tù thiếu nữ tận phương trời anh chỉ áng mây hoang uống ngụm nước đã hao mòn cuộc lữ núi sông này xin gửi lại em mang

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN


Thursday, October 27, 2016

thân sương

ừ mắt em là vầng trăng trải hạn
 đời vân du về giữa mộng giang hà
 này nước mắt này con buồn viễn ngạn
 sầu rất đầy sau hồ khúc ngân thoa

em có nhớ những gì em đã mất
 em có quên hình tượng ủ hai bờ
 em có thấy giữa vườn bông nhỏ hẹp
 gió hoe tàn đùa nụ thắm ngây thơ

em có khóc khi từ hôn quá khứ
 em có còn khi thể xác chia hai
 em có hát theo tài hoa lỡ dở
 giữa tiếng đàn nặng chĩu hai vai

em hãy nghĩ như giàn mơ nở đỏ
 hãy vui mừng khi cúi xuống bên anh
 em hãy ngủ như mắt người vàng võ
 như lốc sầu mãi mãi quay nhanh

em vẫn hẹn như biên thùy bỡ ngỡ
 dù trăm phương rồi cũng theo giòng
 hãy mở hội rạn bừng như quán chợ
 với tình người trả giá chưa xong

(Từ Giã Ngày, 1971)

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Monday, October 24, 2016

BẠN TÔI

thanh niên tuổi 70
là một người lành
(chân chỉ hạt bột)
làm chồng làm cha chu tất
65 tuổi anh nghỉ hưu
rảnh rang nên xin phép vợ con về thăm xứ sở
kể từ buổi hốt hoảng tháo chạy trưa ngày 30 tháng tư 1975

đúng như tinh thần quốc văn giáo khoa thư 
(chúng tôi đã học từ lớp đồng ấu)
"quê hương đẹp hơn cả"
nơi chốn đó, bạn tôi đụng phải tiếng sét ái tình
khiến anh vô cùng mê man 

rồi anh trở lại bên này bày tỏ nguyện vọng
xin ly di vợ để thảnh thơi 
qui hồi cố hương
chung thân với tình yêu mới

trước khi đi
anh đến thăm tôi
để khoe hạnh phúc của mình là có một không hai
tôi phân vân thắc mắc pha chút đàn hặc
bạn tôi không những chẳng chịu hồi tâm mà còn gào lên mắng mỏ
toa là thi sĩ mà chẵng biết mẹ gì về tình yêu
toa chưa yêu nên toa chẳng hề có tư cách để dạy dỗ moa

tôi cười chúc phước 
moa hy vọng toa sẽ may mắn

vài năm sau bạn tôi trở về
xơ xác

bạn tìm đến tôi
cả hai chìm trong rượu

sau một hồi trằm mặc 
bạn bèn hằn học thố lộ
toa biết không
moa là thằng ngu 
nó lừa dối mà moa đâu có hay
một mặt nói thương yêu moa
một mặt nó vẫn rong chơi lang chạ

rồi bạn xuống giọng bùi ngùi
giả như trước đây moa chịu nghe toa

bạn còn muốn trần tình thêm
nhưng tôi hì hà khoát tay
vỗ vai bạn an ủi thông cảm
moa đã hiểu
hôm nay toa hãy biến đau thương thành mồi nhậu
ngày mai sẽ khác

bạn gật đầu
nâng ly uống cạn
ngập ngừng nhìn tôi cảm kích
toa đúng là tri kỷ thứ thiệt của moa

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

chú thích:
moa (moi - french) =  me (english), tôi, tao: ngôi thứ nhất
toa (toi - french) = you (english), anh, mày: ngôi thứ hai



Friday, October 21, 2016

Tháng Mười Giỗ Bạn: NGUYỄN CHÍ THIỆN (1939 - 2012)

anh là tù nhân lương tâm
dũng liệt trước bạo tàn Việt cọng
với tôi, cuộc đời anh là bài thơ bất khuất

anh bỏ đi đã tròn 4 năm
hôm nay, giữa tình cảnh đất nước như thế này
trí tưởng tôi bỗng trồi lên dăm dòng thơ của anh
sáng tác năm 1971
trong thời kỳ anh bị giam cầm
xin chia sẻ cùng các bạn
như một khát vọng chung của dân tộc
(nđbn)

------

thơ NGUYỄN CHÍ THIỆN

sẽ có một ngày con người hôm nay
vất súng
vất cùm
vất cờ
vất Đảng
đội lại khăn tang
quay ngang vòng nạng
oan khiên
về với miếu đường, mồ mả gia tiên
...
trong buổi đoàn viên huynh đệ tương thân
đứng bên nhau trên mất mát quây quần
kẻ bùi ngùi hối hận
kẻ bồi hồi kính cẩn
đặt vòng hoa tái ngộ lên mộ cha ông
khai sáng kỷ nguyên 
tả trắng 
thắng cờ hồng
...

Nguyễn Chí Thiện, 1971 
Sẽ Có Một Ngày (trích)


Tuesday, October 18, 2016

TRÔI ĐÂU VỀ ĐÂU

nếu nhân dân không còn biết phẫn nộ
thì cả dân tộc sẽ trôi đâu về đâu

Sunday, October 16, 2016

CẢM NGHĨ SAU KHI ĐỌC "VĂN HỌC MIỀN NAM" CỦA NGUYỄN VY KHANH

nhận sách từ amazon.ca mấy bữa nay
vừa đọc vừa thú vị
tác giả Nguyễn Vy Khanh
đã có tầm nhìn khá rộng rãi

với tôi
biểu tượng 20 năm Văn Học Miền Nam (1954-1975) như một ngôi nhà
tuy chẳng lớn lao
nhưng ở đó là tổng hợp hương sắc
của mọi khuynh hướng thành phần cầm bút
cư trú khắp nơi
từ địa đầu hỏa tuyến Gio Linh Bến Hải
xuôi nam dọc sống lưng miền trung
lên cao nguyên
xuyên qua miền đông
xuống miền tây
đến tận Cà Mâu cuối Việt

tất cả đã cùng góp sức xây đắp
trong tinh thần
tự do nhân bản khai phóng
và đã cống hiến cho dân tộc nhiều thành tựu không thể phủ nhận
so với chiều dài lập quốc 4000 năm

đã từng có những tác giả
trong và ngoài nước
khi viết văn học sử của giai đoạn này
có thể vì thừa tài thiếu tâm
nặng mặc cảm tự ti tự tôn
hoặc thân phận nô dịch tay sai chính trị
nên tác phẩm của họ đã phơi bày sai lầm khiếm khuyết
họ viết để tự đánh bóng
thù tạc phe nhóm
tráo trở
ngụy danh và tiếm danh

bộ sách  VĂN HỌC MIỀN NAM của Nguyễn Vy Khanh
với dàn bài phong phú
những điều mà lâu nay tôi luôn nhớ tới luôn thao thức
về những góc khuất của giai đoạn này
đều đã được tác giả đề cập rất trung thực

bằng bút pháp giản dị
chan hòa phong cách miệt vườn
nhưng thuyết phục
sâu sát vào chi tiết
đây là bộ văn học sử tương đối sòng phẳng bao quát
sẽ bù đắp bổ sung cho những bộ mang tính chuyên đề văn học sử miền Nam đã xuất bản trước đây

(dĩ nhiên đâu đó vẫn có những sơ sót
nhưng đây là công việc phức tạp
không thể đòi hỏi quá mức khả năng của một cá nhân
nếu trong chúng ta
có ai bất phục
thì cách phản ứng lương thiện nhất
là hãy viết một bộ văn học sử khác
hoàn hảo hơn)

tri ân tác giả Nguyễn Vy Khanh
nhà nghiên cứu phê bình văn học
hiền lành
tâm huyết

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN








Thursday, October 13, 2016

TRÊN TỪ BIỆT VỌNG (2)

thời hai mươi tuổi,
trong một lần tình tự,
tôi chẳng nhớ đã hành xử như thế nào
khiến cho em không vui

rồi giữa bấp bênh thời thế
có thể tôi sẽ phải vào trường bộ binh Thủ Đức

còn em
trong lúc thiếu thoải mái với tôi
đang có một thanh niên kiên trì dụ dỗ
vì thế khi với nhau
em càng kiêu hãnh

trong ái tình
tôi không thích tranh giành trả giá
và cũng chẳng cần tìm hiểu cảm giác của em
chúng tôi chia tay

giữa tâm trạng có có không không
tôi quay lưng qua con đường khác
trôi theo dòng đời
tôi đã viết bài thơ tự giải bày
(posted mấy bữa trước)
với đoạn áp chót:

"ta có nhớ cũng phiêu bồng vạn ngã
dù yêu em thì cũng chẳng ra gì
ta chếch choáng nên suốt đời vội vã
biết có buồn tự buổi em đi"

đôi khi nhớ tình nhớ em,
bốn câu thơ ngân vang trong hồn
tôi thốt nhận ra tự bao giờ
3 chữ đầu câu thơ cuối của đoạn thơ này thay đổi:

"ta có nhớ cũng phiêu bồng vạn ngã
dù yêu em thì cũng chẳng ra gì
ta chếch choáng nên suốt đời vội vã
TÂM HAO MÒN tự buổi em đi"

em
ở đâu đó
nếu đọc được dòng chữ này
thì hãy đứng trước gương soi
ngắm bóng mình
nhìn thật sâu vào đôi mắt 
từng đắm đuối yêu anh một thời
nở nụ cười tươi thắm

vì đổ vỡ ngày nào
là bởi chúng ta
cả hai đều khờ khạo

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Monday, October 10, 2016

TRÊN TỪ BIỆT VỌNG

bắt đầu đó bằng ta u buồn mấy thuở 
vì tình người rồi cũng mây bay 
dù thoáng hiện thật tình như mùa trăng nở 
ta vẫn nhìn nhau khác lạ mai này 

vỗ làn khói hẹn thề mơ tưởng đó 
sẽ mù sương ngại gió em qua 
chiều nhớ nắng mây trôi về tịch vọng 
đành vong thân với rượu đắng môi ngà 

người trong xanh người huy hoàng một cõi 
biết có hồi sinh hồn lá dại mốc rêu 
ta bước xuống bị nhận chìm thê thiết 
dù chung quanh trăm bóng dáng yêu kiều 

ta khuất lặng giữa hang hầm cổ tích 
nghe âm vang về đậu trong lòng 
từng hình bóng dạt trôi từ vạn đại 
em xa vời ở phương đó thương mong 

đêm yên nghỉ nghe từng sợi tóc 
gõ thì thầm trong trí tưởng hoang vu 
như thánh vọng trên ngày xa xôi đó 
còn mất chăng em từng giọt ân thù 

góp nhặt lại từng tờ thư em
ta làm di cảo 
cho muôn thu rồi cũng lạnh lùng 
người có nhớ không người trong lần từ bỏ 
trước sau gì rồi cũng xót xa chung 

khi mê thiếp hồn ta đà rụng cánh 
hát vô chừng em dậy khúc vô biên 
ôm hư vọng sầu ta tràn một thuở 
tóc hương bay em dáng nhỏ vai hiền 

dù thương nhớ cũng xin đừng chờ đợi 
đã điêu tàn thôi đừng khóc nghe em 
xin hãy trọn sống bên người đành đỗi 
coi ngày xưa là sắp tới êm đềm 

ta có nhớ cũng phiêu bồng vạn ngã 
dù yêu em thì cũng chẳng ra gì 
ta chếch choáng nên suốt đời vội vã 
biết có buồn tự buổi em đi 

người trở giấc giữa lòng ta với rượu 
thở hơi nồng theo men đắng lênh đênh 
đêm thức dậy cùng linh hồn thoát ngục 
ngày vô biên thôi soải cánh vô tình 

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN

Thursday, October 6, 2016

LƯU XỨ, 1979 - 1998







NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN
LƯU XỨ

hải ngoại 1979 - 1998

ISBN: 978-1-988199-04-7

Copyright © Batngan Duc Nguyen
All rights reserved.

Lưu trữ tại thư viện Quốc Gia Canada
(Library and Archives Canada)






VƯỢT BIỂN THA HƯƠNG
(thay lời tựa)

bỏ xứ sở ra đi
thử thách nhiều hiểm họa
từ hung bạo đất trời
đến man rợ chứa trong tính người
suốt ba tuần trên biển
nối tiếp gian nan đời mình
tôi thấm thía thế nào là tử sinh

sau bao tai ương kinh hoàng
tôi hiểu
mâu thuẫn nhân gian là trò chơi
điều không may 
là trò chơi
tôi đang dự phần
nhuốm đầy bất hạnh

tôi chọn Canada định cư
sinh cảnh mới hơi thở cũ
trước mặt hệ lụy
khuất nhục sau lưng

thơ chẳng mang sứ mệnh cứu chuộc 
lắm khi còn là gươm dao 
khoét sâu
vào thương thế vốn chưa chịu lành

tôi bất lực
vô ích trước khổ đau

cuộc sống vẫn tới
bên này bên kia
tôi ung dung với tôi-thực-tại
nhẹ nhàng
lặng lẽ

ngót 20 năm
tôi quay ngược cảm xúc
cho dù nghi nan
cho dù trăn trở
cho dù hoài niệm
cho dù thao thức công dân
đã đòi phen lên cơn đồng bóng

tuyển thơ này ôm lung linh viễn xứ
ấp hương giảo mộng quê nhà
sống vùi
chết dập

rồi tất cả sẽ như bọt nước
tản mác thất tung
giữa tạo hóa
mênh mang
luân hồi
vô ngã

NGUYỄN ĐỨC BẠTNGÀN